Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

Một Số Giống Lợn Phổ Biến Ở Nước Ta


Một Số Giống Lợn Phổ Biến Ở Nước Ta
Sử dụng các giống heo thuần chất lượng cao phù hợp với điều kiện sản xuất và môi trường nhiệt đới nước ta là điều kiện tiên quyết để tối ưu lợi nhuận trong chăn nuôi heo công nghiệp và nông hộ. Trong bài viết này, Nguyên Liệu Thức Ăn Gia Súc xin nhấn mạnh những ưu và nhược điểm của hai nhóm heo chính: Heo ngoại và heo nội đang được nuôi phổ biến ở nước ta, nhằm giúp các xí nghiệp-công ty các trang trại và nông hộ chọn ra những giống tốt nhất cho mỗi hệ thống. Sau đây Nguyên Liệu Thức Ăn Gia Súc xin tổng hợp lại và giới thiệu một số giống lợn nội và ngoại phổ biến ở Việt Nam:

I.                  Giống Lợn Nội.

Lợn Móng Cái.

Nguồn gốc : Hà Cối (huyện Đầm Hà), Tiên Yên (Đông Triều) tỉnh Quảng Ninh
Phân bố ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, sau đó lan ra miền Trung và phía Nam.
Hình thái : Màu sắc lông da trắng, lưng và mông có khoang đen yên ngựa, da mỏng mịn, lông thưa và thô. Đầu to, miệng nhỏ dài, tai nhỏ và nhọn, có nếp nhăn to và ngắn ở miệng. Cổ to và ngắn, ngực nở và sâu, lưng dài và hơi võng, bụng hơi xệ, mông rộng và xuôi. Bốn chân tương đối cao thẳng, móng xoè.
Lợn Móng Cái
Lợn Móng Cái
Khối lượng lợn sơ sinh: 450-500 gr/ con, lợn trưởng thành: 140-170 kg/con. Có con tới 200 kg nhưng thời gian nuôi rất lâu. Tỷ lệ mỡ/thịt xẻ 35-38%.
Sinh sản: Lợn đực 3 tháng tuổi biết nhảy cái và trong tinh dịch đã có tinh trùng, lượng tinh dịch 80- 100 ml. Lợn cái 3 tháng tuổi đã bắt đầu động hớn nhưng chưa có khả năng thụ thai. Thường thì lợn cái đến khoảng 7-8 tháng tuổi trở đi mới có đủ điều kiện tốt nhất cho phối giống và có chửa, thời điểm đó lợn đã đạt khối lượng khoảng 40-50 kg hoặc lớn hơn .

Lợn Ba Xuyên.

Tên khác : Heo Bông
Lợn Ba Xuyên có nguồn gốc từ huyện Vị Xuyên – tỉnh Sóc Trăng; là con lai giữa lợn Bershire với lợn địa phương từ năm 1930.
Phân bố rải rác ở các tỉnh Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Tiền Giang, Kiên Giang, An Giang, Long An và Đồng Tháp.
Lợn Ba Xuyên
Lợn Ba Xuyên
Hình thái : Lông và da đều có màu bông đen trắng xen kẽ lẫn nhau. Đầu to vừa phải, mặt ngắn, mõm hơi cong, trán có nếp nhăn, tai to vừa và đứng. Bụng to nhưng gọn, mông rộng. Chân ngắn, móng xòe, chân chữ bát và đi móng, đuôi nhỏ và ngắn.
Khối lượng sơ sinh 350 – 450 gr/con. Trưởng thành nặng 140 – 170 kg/con, có con nặng đến 200 kg.
Bắt đầu phối giống lúc 6 – 7 tháng tuổi; một năm đẻ 2 lứa, 8 – 9 con/lứa.
Chất lượng thịt: Lợn Ba Xuyên có khả năng cho thịt khá, tuy nhiên chất lượng thịt còn chưa cao do mỡ lưng khá dày và diện tích cơ thăn chưa cao. Độ dày mỡ lưng 4,35 cm. Tỷ lệ thịt móc hàm 73.31%. Diện tích cơ thăn 2 21.0 cm

Lợn Thuộc Nhiêu.

Lợn Thuộc Nhiêu là con lai giữa lợn Yorkshire và lợn Bồ Xụ ở vùng Thuộc Nhiêu (huyện Châu Thành – Cai Lậy nay là tỉnh Kiên Giang) từ năm 1930.
Phân bố chủ yểu ở vùng đồng bằng sông cửu Long và Đông Nam Bộ.
Lợn Thuộc Nhiêu
Lợn Thuộc Nhiêu.
Hình thái : Lông và da trắng, có bớt đen nhỏ trên da. Tai to, đứng. Thân hình to tròn, đuôi bé. Chân nhỏ, thon.
Khối lượng sơ sinh 600 – 700 gr/com. Lợn trưởng thành 140 – 160 kg/con.
Bắt đầu phối giống lúc 7 – 8 tháng tuổi. Một năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa 8 – 10 con.

Lợn Mường Khương.

Lợn Mường Khương có nguồn gốc ở Huyện Mường Khương – tỉnh lào Cai.
Phân bố ở các xã Cao Sơn, Tả Thàng, La Pau Tẩn – huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.
Lợn Mường Khương
Lợn Mường Khương.
Hình thái : Màu sắc lông da đen tuyền hoặc đen có đốm trắng ở đầu, đuôi và chân. Lông thưa và mềm. Mõm dài thẳng hoặc hơi cong. Trán nhăn, tai hơi to cúp rũ về phía trước. Lợn có tầm vóc to nhưng lép người, bốn chân to cao vững chắc. Lưng hơi cong, bụng to nhưng không sệ tới sát đất, mông hơi dốc.
Khối lượng sơ sinh 600gr/con, trường thành 90 kg/con có con nặng đến 120kg.
Bắt đầu phối giống lúc 10–11 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 1- 2 lứa, mỗi lứa 5-6 con.
Thịt ngon, ngọt, đáng chú ý là giống lợn này có khả năng đề kháng lại một số loại bệnh mới như lở mồm long móng, tai xanh khá hiệu quả.

Lợn Ỉ.

Lợn ỉ là một giống lợn địa phương ở miền Bắc Việt Nam, ngày nay ít được nuôi do hiệu quả kinh tế không cao, và hiện có nguy cơ tuyệt chủng.
Nguồn gốc xuất phát từ tỉnh Nam Định
Phân bố: Lợn Ỉ mỡ trước đây có nhiều ở các tỉnh miền Bắc, sau đó chúng chỉ tồn tại đến năm 1990. Lợn Ỉ pha có ở Thanh Hóa, Hà Nội.
Lợn ỉ là giống lợn có hiệu quả kinh tế thấp do tăng trọng chậm, tỉ lệ mỡ cao, sinh sản kém. Tuy vậy, lợn ỉ là giống lợn có thịt thơm ngon. Mỡ lợn ỉ có cấu trúc chủ yếu là axit béo không no, ăn không ngán và không làm tăng hàm lượng colesterol trong máu. Ngoài ra, lợn ỉ là còn là giống lợn ưa sạch sẽ. Tinh khôn và có khứu giác nhạy bén.
Phân loại: Có hai loại hình là ỉ mỡ và ỉ pha. Nòi ỉ mỡ bao gồm những con lợn ỉ mà dân gian gọi là ỉ mỡ, ỉ nhăn, ỉ bọ hung. Nòi ỉ pha bao gồm những con mà dân gian gọi là ỉ pha, ỉ bột pha, ỉ sống bương.
Có thể phối giống lúc 4 -5 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 2 lứa, 8 – 11 con/ lứa, có khi 16 con/ lứa.
Nuôi làm thú cưng trong nhà ở Tây phương: Lợn nói chung có trí khôn đáng kể, lại dễ dạy vì muốn được thưởng thức ăn nên nuôi lợn có thể tập cho chúng làm trò. So với lợn Âu Mỹ thì lợn ỉ tạng mình nhỏ chỉ khoảng con chó nên ở Tây phương có phong trào nuôi làm thú cưng bắt đầu từ thập niên 1980. Có người dắt lợn đi dạo như dắt chó. Lợn có thể cho tập dùng hộp đựng giấy vụn để phóng uế hoặc báo hiệu cho chủ để được cho ra ngoài sân.

Lợn Ỉ Mỡ.

Tên khác : Ỉ nhăn, Ỉ bọ hung.
Nguồn gốc: tỉnh Nam Định
Phân bố: Trước đây, giống ỉ mỡ phân bố chủ yếu ở miền Bắc. Nay chỉ còn thấy tại Thanh Hóa và Viện chăn nuôi Việt Nam.
Lợn Ỉ Mỡ
Lợn Ỉ Mỡ.
Hình thái: Lông da đen bóng, lông nhỏ thưa, mặt nhăn, mắt híp, nọng cổ và má chảy xệ, chân thấp, mõm ngắn, bụng xệ hầu như quét đất.
Khối lượng sơ sinh 400 gr/con. 1 năm tuổi 36 kg/con, 3 năm tuổi 50 kg/con, chậm lớn, tăng trọng kém.
Sinh sản: Lúc 4- 5 tháng tuổi có thể phối giống. Một năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa từ 8- 11 con.
Chất lượng thịt: Độ dày mỡ đạt 3.76cm. Mỡ nhiều, chiếm 48% so với thịt xẻ, tích mỡ sớm.

Lợn Ỉ Pha.

Tên khác : Ỉ bột, Ỉ sống bương
Nguồn gốc : tỉnh Nam Định
Hình thái : lông thưa, thô. Lông da đen nhưng không đen bóng như lợn Ỉ mỡ. Đầu to vừa phài, trán gần phẳng, mặt nhăn, mọng cổ và má chảy sệ; thân và chân dài và cao hơn so với lợn Ỉ mỡ.
Lợn Ỉ Pha
Lợn Ỉ Pha.
Khối lượng sơ sinh 420 gr/con; một năm tuổi 48 – 50 kg/con; 3 năm tuổi 60 – 75 kg/com.
Sinh sản: Lúc 4- 5 tháng tuổi có thể phối giống. Một năm đẻ hai lứa, mỗi lứa từ 8- 11 con.
Chất lượng thịt: Độ dày mỡ đạt 3.66cm. Mỡ nhiều chiếm 42.5% so với thịt xẻ, tích mỡ sớm.

Lợn Mẹo.

Tên khác: Lợn Mèo
Lợn Mèo là giống lợn của người H’Mông
Phân bố chủ yếu ở Vùng cao của Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai, Yên Bái
Hình thái: Lông da màu đen. Lông dài và cứng. Thường có 6 điểm trắng ở 4 chân, trán và đuôi, một số có loang trắng ở bụng. Đầu to, rộng, mặt hơi gãy, trán dô và thường có khoáy trán, mõm dài, tai nhỏ và hơi chúc về phía trước. Vai rộng, lưng rộng, phẳng hoặc hơi vồng lên. Mông cao hơn vai. Bụng to nhưng không sệ. Chân cao, thẳng, vòng ống thô, đi đứng trên hai ngón trước.
Lợn Mẹo
Lợn Mẹo
Khối lượng sơ sinh 480 – 500 gr/con, nuôi 1 năm nặng 40kg,  trưởng thành 110 – 120 kg/con
Bắt đầu phối giống lúc 10 tháng tuổi. Một năm đẻ 1 lứa, mội lứa 6 – 7 con, nuôi ở đồng bằng có thể đẻ 9 – 10 con.
Sinh sản: Bắt đầu phối giống lúc 10 tháng tuổi. Một năm đẻ 1 lứa, mỗi lứa đẻ 6-7 con. Nuôi ở đồng bằng có thể đẻ lên 9-10 con.
Chất lượng thịt: Lợn Mẹo có khả năng cho thịt tương đối ca tỷ lệ móc hàm 83,53%; Tỷ lệ xẻ 72,26%;

Lợn Mini.

Tên khác : Lợn cỏ Mini
Nguồn gốc : huyện Pakô và Vân Kiều tỉnh Quảng Trị
Phân bố chủ yếu ở huyện Đắc Krông, Hướng Hóa, Do Linh, Vĩnh Linh thuộc tỉnh Quảng Trị.
Lợn Mini
Lợn Mini
Hình thái : Màu sắc lông da đen bạc nhưng thỉnh thoảng có màu phớt vàng hung, lưng thẳng. Thân hình gọn, đầu và cổ to. Mõm nhọn, tai nhỏ. Hình dáng giống như con chuột.
Khối lượng sơ sinh 250 – 300 gr/con. Bắt đầu phối giống lúc 7 – 8 tháng tuổi. Một năm đẻ bình quân 1,5 lứa, mỗi lứa 8 con. Thịt ngon, ít mỡ.

Lợn Sóc.

Tên khác : Lợn Sóc Tây Nguyên, Heo Sóc, Heo Êđê
Nguồn gốc : Là giống lợn của đồng bào dân tộc Tây Nguyên : Êđê, Gia Rai, Bana
Phân bố chủ yếu ở các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum.
Hình thái nhỏ con, mõm dài, nhọn. Da dày, mốc, lông đen, dài, có bờm dài và dựng đứng. Chân nhỏ, đi bằng móng, rất nhanh nhẹn.
Lợn Sóc
Lợn Sóc
Khối lượng lợn sơ sinh 400 – 450 gr/con. Trưởng thành 40 kg/con.
Bắt đầu phối giống lúc 9–12 tháng tuổi. Một năm đẻ 1-2 lứa, mỗi lứa 6-10 con.
Chất lượng thịt: Ít tích mỡ,tỉ lệ nạc cao. Tỉ lệ xẻ đạt khoản 77%, tỉ lệ móc hàm đạt 44%.

II.               Lơn Ngoại:

Lợn Yorkshire:

Nguồn gốc Anh, thân hình chữ nhật, có màu trắng, tai đứng hướng nạc mỡ, sinh sản tốt 10 - 12 con/lần, thích nghi cao, lợn đực nặng khoảng 250-320 kg, cái khoảng 200-250 kg, tỷ lệ nạc 52-55%
Lợn Yorkshire
Lợn Yorkshire
Đặc biệt dòng heo của úc có ưu điểm tăng trọng nhanh, ít mỡ, nhiều nạc, dễ nuôi dưỡng chăm sóc và có khả năng thích nghi cao với môi trường nhiệt đới nóng ẩm nước ta. Đực Yorkshire 4 chân cao, to khỏe rắn chắc tạo dáng đi linh hoạt, có chất lượng tinh dịch tốt, cho tỷ lệ thụ thai cao và nhiều heo cho mỗi lứa đẻ. Năng suất sinh trưởng và sinh sản của con lai từ đực Yorkshire cũng cao hơn so với những giống khác và thích nghi tốt với điều kiện chăn nuôi nông hộ.

Lợn Landrace:

Nguốn gốc Đan Mạch, thân hình tam giác màu trắng, tai cụp, hướng nạc, sinh sản tốt 8-12 con/lần, thích nghi kém, khối lượng sơ sinh 1,2-1,3 kg/con, con đực trưởng thành 270-300 kg, con cái 200-230 kg, tỷ lệ nạc 54 - 56%.
Lợn Landrace
Lợn Landrace
Dòng đực Landrace có phần mông đặc biệt phát triển, cho nhiều nạc hơn giống Yorkshire, nhưng nhạy cảm với những điều kiện môi trường bất lợi (stress). Dòng nái Lan- drace mỗi lứa đẻ từ 10-14 con, nhưng dễ mắc các bệnh sinh sản như: Mất sữa hoặc viêm nhiễm đường sinh dục

Lợn Meishan:

Giống lợn này có nguồn gốc Trung Quốc, màu đen, mặt và da nhăn, lông đen toàn thân. 
Lợn Meishan
Lợn Meishan
Lợn Meishan có nhiều vú, thành thục sinh dục sớm ngay từ lúc chưa đầy 2,5 tháng tuổi so với 5 tháng tuổi ở các giống lợn khác. Có khả năng sinh sản và nuôi con rất tốt. Lợn Meishan  có thể cho tới 30 heo con/nái/năm, thích nghi tốt, heo này áp dụng để cải thiện khả năng sinh sản cho các giống heo khác rất tốt.
Tuy nhiên lợn Meishan lớn chậm, nhiều mỡ và cấu tạo thân thịt kém.

Lợn Duroc:

Nguồn gốc Mỹ, thân hình chữ nhật màu đỏ nâu, tai cụp từ giữa, thích nghi tốt.
Đây là loại heo hướng nạc, thường được dùng như dòng đực cuối cùng để phối với heo nái lai hai máu Yorkshire và Landrace để tạo con lai nuôi thịt có tỷ lệ nạc cao và thịt có chất lượng thơm ngon.
Lợn Duroc
Lợn Duroc
Nhược điểm của heo Duroc là đẻ ít con (7-9 con/lứa), thường đẻ khó và ít sữa. Heo Duroc chỉ thích hợp làm nọc giống, có chất lượng tinh dịch tốt và cho nhiều heo con ở mỗi lứa đẻ. Đặc điểm nổi bật của heo Duroc là sản xuất con lai nhanh lớn, nhiều nạc có nhiều mỡ dắt làm cho thịt có vị thơm ngon.
Lợn trưởng thành con đực nặng khoảng 300-350 kg, con cái 200-250 kg, tỷ lệ nạc 58 - 60,4 %.

Lợn Pietrain:

Nguồn gốc Bỉ, thân hình có vai lưng mông, phát triển tốt, màu trắng đốm đen, tai cụp từ giữa, hướng nạc.
Heo Pietrain không thích hợp dùng làm nái, có tuổi đẻ lứa đầu chậm: 418 ngày tuổi (so với Yorkshire là 366 ngày tuổi), và số con sơ sinh bình quân thấp (9 - 10 con/ lần).
Lợn Pietrain
Lợn Pietrain
Đặc tính ưu việt của heo Pietrain là sử dụng thức ăn rất hiệu quả để chuyển đổi thành nạc, với tỷ lệ nạc cao từ 61 - 63%,  lợn đực nặng khoảng 270-350 kg, con cái nặng khoảng 200-250 kg.
Tuy nhiên, giống heo này kém thích nghi với điều kiện nóng ẩm, dễ bị đột tử khi vận chuyển đường xa và có chất lượng thịt kém do ảnh hưởng của gene Halothane. Hơn nữa giống heo này mang gene Redement Napole (RN) gây acid hóa thịt.

Lợn Hampshire:

Nguồn gốc Bắc Mỹ, lợn có lông màu đen 2 chân trước có đai màu trắng, tai thẳng, đầu to vừa phải, mõm thẳng, chân khỏe và chắc chắn, lưng hơi cong.
Lợn Hampshire là giống lợn hướng nạc, có khả năng tăng khối lượng nhanh và khả năng chuyển hóa thức ăn tốt. Lợn Hampshire có khả năng tăng khối lượng 750g/con/ngày.
Lợn Hampshire
Lợn Hampshire
Lợn có khả năng sinh sản thấp hơn các giống ngoại khác, đẻ 7 -8 con/lứa, khả năng nuôi con khéo, tỷ lệ nuôi sống cao.

Một xu hướng không thể tránh khỏi là các giống heo nội đang dần được thay thế bởi các heo ngoại cao sản, đặc biệt ở nhiều trại quy mô lớn có trình độ chăn nuôi thâm canh và đầu tư cao. Tuy nhiên, trong điều kiện sản xuất nông hộ ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam, đại đa số nông dân nuôi con lai giữa nái địa phương và đực ngoại. Các giống heo nái nội có tầm vóc nhỏ bé, nhiều mỡ, ít nạc, nhưng có nhiều đặc tính ưu việt: Chịu kham khổ, dễ nuôi dưỡng, tận dụng tốt nguồn thức ăn địa phương, mắn đẻ, nuôi con khéo, đề kháng cao với bệnh tật và đặc biệt thích nghi với môi trường khí hậu nước ta. Trong khi đó các giống ngoại lớn nhanh cho nhiều nạc. Lai tạo giữa các giống heo nội với các giống heo ngoại sẽ kết hợp bổ sung những đặc tính tốt của cả 2 giống. Con lai có tầm vóc cải thiện, tăng trọng cao và giữ được năng suất sinh sản tốt. Vì thế, chúng ta cần phải bảo tồn nguồn gen heo nội để nhân thuần cung cấp nái nền lai tạo với các giống ngoại nhập trong các hệ thống sản xuất nhỏ, đặc biệt chăn nuôi nông hộ thường thiếu vốn đầu tư và kỹ thuật, với phương thức chăn nuôi tận dụng phế phụ phẩm nông nghiệp vẫn còn phổ biến.

Tóm lại, có 3 giống heo ngoại chính nên được sử dụng tại Việt Nam là: Yorkshire, Landrace và Duroc. Các giống gia súc, gia cầm địa phương nói chung và các giống heo nội nói riêng cần được bảo tồn và cải thiện tiềm năng di truyền để lai tạo với các giống nhập nội cung cấp con lai phù hợp với điều kiện sản xuất nông hộ trong từng vùng đất nước.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn hãy like và cộng 1 nếu thấy bài viết hay nhé. Để lại bình luận nếu bạn có bất cứ thắc mắc nào. Click vào "Thông báo cho tôi" để nhận câu trả lời qua Email. Nhận xét luôn luôn được kiểm duyệt trước khi hiện lên công khai. Đừng lo lắng nếu nhận xét của bạn không hiện lên ngay lập tức.