Sử dụng các giống heo thuần chất lượng cao phù hợp với điều kiện sản xuất và môi trường nhiệt đới nước ta là điều kiện tiên quyết để tối ưu lợi nhuận trong chăn nuôi heo công nghiệp và nông hộ. Trong bài viết này, Nguyên Liệu Thức Ăn Gia Súc xin nhấn mạnh những ưu và nhược điểm của hai nhóm heo chính: Heo ngoại và heo nội đang được nuôi phổ biến ở nước ta, nhằm giúp các xí nghiệp-công ty các trang trại và nông hộ chọn ra những giống tốt nhất cho mỗi hệ thống. Sau đây Nguyên Liệu Thức Ăn Gia Súc xin tổng hợp lại và giới thiệu một số giống lợn nội và ngoại phổ biến ở Việt Nam:
I.
Giống
Lợn Nội.
Lợn Móng Cái.
Nguồn
gốc : Hà Cối (huyện Đầm Hà), Tiên Yên (Đông Triều) tỉnh Quảng Ninh
Phân
bố ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, sau đó lan ra miền Trung và phía Nam.
Hình
thái : Màu sắc lông da trắng, lưng và mông có khoang đen yên ngựa, da mỏng mịn,
lông thưa và thô. Đầu to, miệng nhỏ dài, tai nhỏ và nhọn, có nếp nhăn to và ngắn
ở miệng. Cổ to và ngắn, ngực nở và sâu, lưng dài và hơi võng, bụng hơi xệ, mông
rộng và xuôi. Bốn chân tương đối cao thẳng, móng xoè.
Lợn Móng Cái |
Khối
lượng lợn sơ sinh: 450-500 gr/ con, lợn trưởng thành: 140-170 kg/con. Có con tới
200 kg nhưng thời gian nuôi rất lâu. Tỷ lệ mỡ/thịt xẻ 35-38%.
Sinh
sản: Lợn đực 3 tháng tuổi biết nhảy cái và trong tinh dịch đã có tinh trùng, lượng
tinh dịch 80- 100 ml. Lợn cái 3 tháng tuổi đã bắt đầu động hớn nhưng chưa có khả
năng thụ thai. Thường thì lợn cái đến khoảng 7-8 tháng tuổi trở đi mới có đủ điều
kiện tốt nhất cho phối giống và có chửa, thời điểm đó lợn đã đạt khối lượng khoảng
40-50 kg hoặc lớn hơn .
Lợn Ba Xuyên.
Tên
khác : Heo Bông
Lợn
Ba Xuyên có nguồn gốc từ huyện Vị Xuyên – tỉnh Sóc Trăng; là con lai giữa lợn
Bershire với lợn địa phương từ năm 1930.
Phân
bố rải rác ở các tỉnh Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Tiền Giang, Kiên Giang, An
Giang, Long An và Đồng Tháp.
Lợn Ba Xuyên |
Hình
thái : Lông và da đều có màu bông đen trắng xen kẽ lẫn nhau. Đầu to vừa phải, mặt
ngắn, mõm hơi cong, trán có nếp nhăn, tai to vừa và đứng. Bụng to nhưng gọn,
mông rộng. Chân ngắn, móng xòe, chân chữ bát và đi móng, đuôi nhỏ và ngắn.
Khối
lượng sơ sinh 350 – 450 gr/con. Trưởng thành nặng 140 – 170 kg/con, có con nặng
đến 200 kg.
Bắt
đầu phối giống lúc 6 – 7 tháng tuổi; một năm đẻ 2 lứa, 8 – 9 con/lứa.
Chất
lượng thịt: Lợn Ba Xuyên có khả năng cho thịt khá, tuy nhiên chất lượng thịt
còn chưa cao do mỡ lưng khá dày và diện tích cơ thăn chưa cao. Độ dày mỡ lưng
4,35 cm. Tỷ lệ thịt móc hàm 73.31%. Diện tích cơ thăn 2 21.0 cm
Lợn Thuộc Nhiêu.
Lợn
Thuộc Nhiêu là con lai giữa lợn Yorkshire và lợn Bồ Xụ ở vùng Thuộc Nhiêu (huyện
Châu Thành – Cai Lậy nay là tỉnh Kiên Giang) từ năm 1930.
Hình
thái : Lông và da trắng, có bớt đen nhỏ trên da. Tai to, đứng. Thân hình to
tròn, đuôi bé. Chân nhỏ, thon.
Khối
lượng sơ sinh 600 – 700 gr/com. Lợn trưởng thành 140 – 160 kg/con.
Bắt
đầu phối giống lúc 7 – 8 tháng tuổi. Một năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa 8 – 10 con.
Lợn Mường Khương.
Lợn
Mường Khương có nguồn gốc ở Huyện Mường Khương – tỉnh lào Cai.
Phân
bố ở các xã Cao Sơn, Tả Thàng, La Pau Tẩn – huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.
Lợn Mường Khương. |
Hình
thái : Màu sắc lông da đen tuyền hoặc đen có đốm trắng ở đầu, đuôi và chân.
Lông thưa và mềm. Mõm dài thẳng hoặc hơi cong. Trán nhăn, tai hơi to cúp rũ về
phía trước. Lợn có tầm vóc to nhưng lép người, bốn chân to cao vững chắc. Lưng
hơi cong, bụng to nhưng không sệ tới sát đất, mông hơi dốc.
Khối
lượng sơ sinh 600gr/con, trường thành 90 kg/con có con nặng đến 120kg.
Bắt
đầu phối giống lúc 10–11 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 1- 2 lứa, mỗi lứa 5-6 con.
Thịt ngon, ngọt, đáng chú ý là giống lợn này có khả năng đề kháng
lại một số loại bệnh mới như lở mồm long móng, tai xanh khá hiệu quả.
Lợn Ỉ.
Lợn
ỉ là một giống lợn địa phương ở miền Bắc Việt Nam, ngày nay ít được nuôi do hiệu
quả kinh tế không cao, và hiện có nguy cơ tuyệt chủng.
Nguồn
gốc xuất phát từ tỉnh Nam Định
Phân
bố: Lợn Ỉ mỡ trước đây có nhiều ở các tỉnh miền Bắc, sau đó chúng chỉ tồn tại đến
năm 1990. Lợn Ỉ pha có ở Thanh Hóa, Hà Nội.
Lợn ỉ là giống lợn có hiệu quả kinh tế thấp do tăng trọng chậm, tỉ
lệ mỡ cao, sinh sản kém. Tuy vậy, lợn ỉ là giống lợn có thịt thơm ngon. Mỡ lợn ỉ
có cấu trúc chủ yếu là axit béo không no, ăn không ngán và không làm tăng hàm
lượng colesterol trong máu. Ngoài ra, lợn ỉ là còn là giống lợn ưa sạch sẽ.
Tinh khôn và có khứu giác nhạy bén.
Phân
loại: Có hai loại hình là ỉ mỡ và ỉ pha. Nòi ỉ mỡ bao gồm những con lợn ỉ mà
dân gian gọi là ỉ mỡ, ỉ nhăn, ỉ bọ hung. Nòi ỉ pha bao gồm những con mà dân
gian gọi là ỉ pha, ỉ bột pha, ỉ sống bương.
Có
thể phối giống lúc 4 -5 tháng tuổi. Mỗi năm đẻ 2 lứa, 8 – 11 con/ lứa, có khi
16 con/ lứa.
Nuôi
làm thú cưng trong nhà ở Tây phương: Lợn nói chung có trí khôn đáng kể, lại dễ
dạy vì muốn được thưởng thức ăn nên nuôi lợn có thể tập cho chúng làm trò. So với
lợn Âu Mỹ thì lợn ỉ tạng mình nhỏ chỉ khoảng con chó nên ở Tây phương có phong
trào nuôi làm thú cưng bắt đầu từ thập niên 1980. Có người dắt lợn đi dạo như dắt
chó. Lợn có thể cho tập dùng hộp đựng giấy vụn để phóng uế hoặc báo hiệu cho chủ
để được cho ra ngoài sân.
Lợn
Ỉ Mỡ.
Tên
khác : Ỉ nhăn, Ỉ bọ hung.
Nguồn
gốc: tỉnh Nam Định
Phân
bố: Trước đây, giống ỉ mỡ phân bố chủ yếu ở miền Bắc. Nay chỉ còn thấy tại
Thanh Hóa và Viện chăn nuôi Việt Nam.
Lợn Ỉ Mỡ. |
Hình
thái: Lông da đen bóng, lông nhỏ thưa, mặt nhăn, mắt híp, nọng cổ và má chảy xệ,
chân thấp, mõm ngắn, bụng xệ hầu như quét đất.
Khối
lượng sơ sinh 400 gr/con. 1 năm tuổi 36 kg/con, 3 năm tuổi 50 kg/con, chậm lớn,
tăng trọng kém.
Sinh
sản: Lúc 4- 5 tháng tuổi có thể phối giống. Một năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa từ 8- 11
con.
Chất
lượng thịt: Độ dày mỡ đạt 3.76cm. Mỡ nhiều, chiếm 48% so với thịt xẻ, tích mỡ sớm.
Lợn
Ỉ Pha.
Tên
khác : Ỉ bột, Ỉ sống bương
Nguồn
gốc : tỉnh Nam Định
Hình
thái : lông thưa, thô. Lông da đen nhưng không đen bóng như lợn Ỉ mỡ. Đầu to vừa
phài, trán gần phẳng, mặt nhăn, mọng cổ và má chảy sệ; thân và chân dài và cao
hơn so với lợn Ỉ mỡ.
Lợn Ỉ Pha. |
Khối
lượng sơ sinh 420 gr/con; một năm tuổi 48 – 50 kg/con; 3 năm tuổi 60 – 75
kg/com.
Sinh
sản: Lúc 4- 5 tháng tuổi có thể phối giống. Một năm đẻ hai lứa, mỗi lứa từ 8-
11 con.
Chất
lượng thịt: Độ dày mỡ đạt 3.66cm. Mỡ nhiều chiếm 42.5% so với thịt xẻ, tích mỡ
sớm.
Lợn Mẹo.
Tên
khác: Lợn Mèo
Lợn
Mèo là giống lợn của người H’Mông
Phân
bố chủ yếu ở Vùng cao của Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai, Yên Bái
Hình
thái: Lông da màu đen. Lông dài và cứng. Thường có 6 điểm trắng ở 4 chân, trán
và đuôi, một số có loang trắng ở bụng. Đầu to, rộng, mặt hơi gãy, trán dô và
thường có khoáy trán, mõm dài, tai nhỏ và hơi chúc về phía trước. Vai rộng,
lưng rộng, phẳng hoặc hơi vồng lên. Mông cao hơn vai. Bụng to nhưng không sệ.
Chân cao, thẳng, vòng ống thô, đi đứng trên hai ngón trước.
Lợn Mẹo |
Khối
lượng sơ sinh 480 – 500 gr/con, nuôi 1 năm nặng 40kg, trưởng thành 110 – 120 kg/con
Bắt
đầu phối giống lúc 10 tháng tuổi. Một năm đẻ 1 lứa, mội lứa 6 – 7 con, nuôi ở đồng
bằng có thể đẻ 9 – 10 con.
Sinh
sản: Bắt đầu phối giống lúc 10 tháng tuổi. Một năm đẻ 1 lứa, mỗi lứa đẻ 6-7
con. Nuôi ở đồng bằng có thể đẻ lên 9-10 con.
Chất
lượng thịt: Lợn Mẹo có khả năng cho thịt tương đối ca tỷ lệ móc hàm 83,53%; Tỷ
lệ xẻ 72,26%;
Lợn Mini.
Tên
khác : Lợn cỏ Mini
Nguồn
gốc : huyện Pakô và Vân Kiều tỉnh Quảng Trị
Hình
thái : Màu sắc lông da đen bạc nhưng thỉnh thoảng có màu phớt vàng hung, lưng
thẳng. Thân hình gọn, đầu và cổ to. Mõm nhọn, tai nhỏ. Hình dáng giống như con
chuột.
Khối
lượng sơ sinh 250 – 300 gr/con. Bắt đầu phối giống lúc 7 – 8 tháng tuổi. Một
năm đẻ bình quân 1,5 lứa, mỗi lứa 8 con. Thịt ngon, ít mỡ.
Lợn Sóc.
Tên
khác : Lợn Sóc Tây Nguyên, Heo Sóc, Heo Êđê
Nguồn
gốc : Là giống lợn của đồng bào dân tộc Tây Nguyên : Êđê, Gia Rai, Bana
Phân
bố chủ yếu ở các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum.
Hình
thái nhỏ con, mõm dài, nhọn. Da dày, mốc, lông đen, dài, có bờm dài và dựng đứng.
Chân nhỏ, đi bằng móng, rất nhanh nhẹn.
Lợn Sóc |
Khối
lượng lợn sơ sinh 400 – 450 gr/con. Trưởng thành 40 kg/con.
Bắt
đầu phối giống lúc 9–12 tháng tuổi. Một năm đẻ 1-2 lứa, mỗi lứa 6-10 con.
Chất lượng thịt: Ít tích mỡ,tỉ lệ nạc cao. Tỉ lệ xẻ đạt khoản 77%,
tỉ lệ móc hàm đạt 44%.
II.
Lơn
Ngoại:
Lợn Yorkshire:
Nguồn
gốc Anh, thân hình chữ nhật, có màu trắng, tai đứng hướng nạc mỡ, sinh sản tốt
10 - 12 con/lần, thích nghi cao, lợn đực nặng khoảng 250-320 kg, cái khoảng 200-250
kg, tỷ lệ nạc 52-55%
Lợn Yorkshire |
Đặc
biệt dòng heo của úc có ưu điểm tăng trọng nhanh, ít mỡ, nhiều nạc, dễ nuôi dưỡng
chăm sóc và có khả năng thích nghi cao với môi trường nhiệt đới nóng ẩm nước
ta. Đực Yorkshire 4 chân cao, to khỏe rắn chắc tạo dáng đi linh hoạt, có chất
lượng tinh dịch tốt, cho tỷ lệ thụ thai cao và nhiều heo cho mỗi lứa đẻ. Năng
suất sinh trưởng và sinh sản của con lai từ đực Yorkshire cũng cao hơn so với
những giống khác và thích nghi tốt với điều kiện chăn nuôi nông hộ.
Lợn Landrace:
Nguốn
gốc Đan Mạch, thân hình tam giác màu trắng, tai cụp, hướng nạc, sinh sản tốt
8-12 con/lần, thích nghi kém, khối lượng sơ sinh 1,2-1,3 kg/con, con đực trưởng
thành 270-300 kg, con cái 200-230 kg, tỷ lệ nạc 54 - 56%.
Lợn Landrace |
Dòng
đực Landrace có phần mông đặc biệt phát triển, cho nhiều nạc hơn giống
Yorkshire, nhưng nhạy cảm với những điều kiện môi trường bất lợi (stress). Dòng
nái Lan- drace mỗi lứa đẻ từ 10-14 con, nhưng dễ mắc các bệnh sinh sản như: Mất
sữa hoặc viêm nhiễm đường sinh dục
Lợn Meishan:
Lợn
Meishan có nhiều vú, thành thục sinh dục sớm ngay từ lúc chưa đầy 2,5 tháng tuổi
so với 5 tháng tuổi ở các giống lợn khác. Có khả năng sinh sản và nuôi con rất
tốt. Lợn Meishan có thể cho tới 30 heo
con/nái/năm, thích nghi tốt, heo này áp dụng để cải thiện khả năng sinh sản cho
các giống heo khác rất tốt.
Tuy
nhiên lợn Meishan lớn chậm, nhiều mỡ và cấu tạo thân thịt kém.
Lợn Duroc:
Nguồn
gốc Mỹ, thân hình chữ nhật màu đỏ nâu, tai cụp từ giữa, thích nghi tốt.
Đây
là loại heo hướng nạc, thường được dùng như dòng đực cuối cùng để phối với heo
nái lai hai máu Yorkshire và Landrace để tạo con lai nuôi thịt có tỷ lệ nạc cao
và thịt có chất lượng thơm ngon.
Lợn Duroc |
Nhược
điểm của heo Duroc là đẻ ít con (7-9 con/lứa), thường đẻ khó và ít sữa. Heo
Duroc chỉ thích hợp làm nọc giống, có chất lượng tinh dịch tốt và cho nhiều heo
con ở mỗi lứa đẻ. Đặc điểm nổi bật của heo Duroc là sản xuất con lai nhanh lớn,
nhiều nạc có nhiều mỡ dắt làm cho thịt có vị thơm ngon.
Lợn
trưởng thành con đực nặng khoảng 300-350 kg, con cái 200-250 kg, tỷ lệ nạc 58 -
60,4 %.
Lợn Pietrain:
Nguồn
gốc Bỉ, thân hình có vai lưng mông, phát triển tốt, màu trắng đốm đen, tai cụp
từ giữa, hướng nạc.
Heo
Pietrain không thích hợp dùng làm nái, có tuổi đẻ lứa đầu chậm: 418 ngày tuổi
(so với Yorkshire là 366 ngày tuổi), và số con sơ sinh bình quân thấp (9 - 10
con/ lần).
Lợn Pietrain |
Đặc
tính ưu việt của heo Pietrain là sử dụng thức ăn rất hiệu quả để chuyển đổi
thành nạc, với tỷ lệ nạc cao từ 61 - 63%, lợn đực nặng khoảng 270-350 kg, con cái nặng khoảng
200-250 kg.
Tuy
nhiên, giống heo này kém thích nghi với điều kiện nóng ẩm, dễ bị đột tử khi vận
chuyển đường xa và có chất lượng thịt kém do ảnh hưởng của gene Halothane. Hơn nữa
giống heo này mang gene Redement Napole (RN) gây acid hóa thịt.
Lợn Hampshire:
Nguồn
gốc Bắc Mỹ, lợn có lông màu đen 2 chân trước có đai màu trắng, tai thẳng, đầu
to vừa phải, mõm thẳng, chân khỏe và chắc chắn, lưng hơi cong.
Lợn
Hampshire là giống lợn hướng nạc, có khả năng tăng khối lượng nhanh và khả năng
chuyển hóa thức ăn tốt. Lợn Hampshire có khả năng tăng khối lượng
750g/con/ngày.
Lợn Hampshire |
Lợn
có khả năng sinh sản thấp hơn các giống ngoại khác, đẻ 7 -8 con/lứa, khả năng
nuôi con khéo, tỷ lệ nuôi sống cao.
Một
xu hướng không thể tránh khỏi là các giống heo nội đang dần được thay thế bởi
các heo ngoại cao sản, đặc biệt ở nhiều trại quy mô lớn có trình độ chăn nuôi
thâm canh và đầu tư cao. Tuy nhiên, trong điều kiện sản xuất nông hộ ở nhiều
vùng nông thôn Việt Nam, đại đa số nông dân nuôi con lai giữa nái địa phương và
đực ngoại. Các giống heo nái nội có tầm vóc nhỏ bé, nhiều mỡ, ít nạc, nhưng có
nhiều đặc tính ưu việt: Chịu kham khổ, dễ nuôi dưỡng, tận dụng tốt nguồn thức
ăn địa phương, mắn đẻ, nuôi con khéo, đề kháng cao với bệnh tật và đặc biệt
thích nghi với môi trường khí hậu nước ta. Trong khi đó các giống ngoại lớn
nhanh cho nhiều nạc. Lai tạo giữa các giống heo nội với các giống heo ngoại sẽ
kết hợp bổ sung những đặc tính tốt của cả 2 giống. Con lai có tầm vóc cải thiện,
tăng trọng cao và giữ được năng suất sinh sản tốt. Vì thế, chúng ta cần phải bảo
tồn nguồn gen heo nội để nhân thuần cung cấp nái nền lai tạo với các giống ngoại
nhập trong các hệ thống sản xuất nhỏ, đặc biệt chăn nuôi nông hộ thường thiếu vốn
đầu tư và kỹ thuật, với phương thức chăn nuôi tận dụng phế phụ phẩm nông nghiệp
vẫn còn phổ biến.
Tóm lại, có 3 giống heo ngoại chính nên được sử dụng tại Việt Nam là: Yorkshire,
Landrace và Duroc. Các giống gia súc, gia cầm địa phương nói chung và các giống
heo nội nói riêng cần được bảo tồn và cải thiện tiềm năng di truyền để lai tạo
với các giống nhập nội cung cấp con lai phù hợp với điều kiện sản xuất nông hộ
trong từng vùng đất nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn hãy like và cộng 1 nếu thấy bài viết hay nhé. Để lại bình luận nếu bạn có bất cứ thắc mắc nào. Click vào "Thông báo cho tôi" để nhận câu trả lời qua Email. Nhận xét luôn luôn được kiểm duyệt trước khi hiện lên công khai. Đừng lo lắng nếu nhận xét của bạn không hiện lên ngay lập tức.